Hè năm 2011, cái nắng vàng rực của Đắk Nông như thiêu đốt cả lòng người. Tôi, một thằng nhóc 15 tuổi vừa học hết lớp 9 được mười ngày, đã vội vàng bỏ lại trường lớp . Bỏ lại những trang vở còn thơm mùi mực để chạy theo những giấc mơ mông lung.
Giờ nghĩ lại, tôi vẫn không hiểu tại sao mình lại dại dột như thế. Có lẽ tuổi trẻ là những ngày tháng bồng bột, nơi cái tôi lớn hơn cả bầu trời . Nhưng lại chẳng đủ sâu sắc để hiểu rằng cuộc đời không phải là một chuyến phiêu lưu dễ dàng.
Nhà tôi ở Đắk Nông nơi núi rừng bạt ngàn, cà phê xanh mướt . Và những con đường đất đỏ bazan bám chặt vào ký ức tuổi thơ.
Bố mẹ tôi ! những người nông dân chân chất . Ngày đêm tần tảo vì miếng cơm manh áo nuôi tôi khôn lớn mà chẳng một lời than vãn.
Vậy mà tôi ! thằng con trai chưa biết mùi đời, lại nằng nặc bỏ học lang thang theo đám bạn . Sống như thể ngày mai chẳng bao giờ đến. Âu cũng là định mệnh, hay đúng hơn là cái giá của sự bồng bột.
Tôi theo một ông anh gần nhà vào rừng phát rẫy. Mười ngày lăn lộn giữa lằn ranh của nắng gió và mồ hôi . Tôi tưởng mình đã lớn, đã đủ sức để bươn chải.
Nhưng rồi khi trở về, nhìn những đứa bạn cùng trang lứa vẫn cặm cụi bên trang sách chuẩn bị thi tốt nghiệp cấp hai . Tôi lại thấy lòng mình chùng xuống. Tôi quyết định đi thi chỉ để lấy cái bằng, để mẹ khỏi phải thở dài mỗi lần nhìn tôi.
Một buổi chiều tà khi ánh nắng vàng nhạt trải dài trên những bụi sậy ven làng . Tôi ngồi với thằng bạn thân tên D. Hai thằng tuổi chưa tròn mười sáu nhưng đã mơ mòng làm ăn lớn.
D bảo nó nghe đâu có vụ buôn thú rừng từ Nam ra Bắc, rắn rết, kỳ đà đủ cả. Ý tưởng nghe thì béo bở nhưng túi tiền thì lép kẹp, vốn liếng chẳng có. Chưa kể, một người quen của D vừa lĩnh án bảy năm tù vì buôn bán động vật hoang dã. Thế là kế hoạch “làm giàu” nhanh chóng tan thành mây khói.
Rồi một tối, trong men say của ly rượu đế quê nhà, D thủ thỉ: “Tao sắp xuống Sài Gòn làm quán. Mày đi không?”
Nghe đến Sài Gòn mắt tôi sáng rực. Thành phố ấy, trong tâm trí thằng nhóc nhà quê là nơi lộng lẫy, xa hoa, là miền đất hứa của những giấc mơ lớn.
Tôi chẳng nghĩ nhiều, chỉ gật đầu: “Đi! Hỏi chỗ đó còn cần người không, tao theo!”
D gật đầu, bảo để hỏi. Nhưng thật ra, cả hai đứa đều mù mờ. Chẳng biết làm gì, làm cho ai . Chỉ biết là đi, là thoát khỏi cái làng quê quen thuộc để tìm một chân trời mới.
Ngày hôm sau, tôi lén lấy cắp cuốn sổ hộ khẩu của gia đình . Gói ghém vài bộ quần áo cũ kỹ vào cái ca-táp sờn rách, rồi cùng D bỏ nhà ra đi.
Trong túi tôi lúc ấy chỉ có vài trăm ngàn . Chẳng điện thoại, chẳng chứng minh thư . Chỉ có một trái tim đầy nhiệt huyết và một chút liều lĩnh của tuổi trẻ.
Trước khi đi tôi đứng lặng trước cửa nhà . Nhìn bóng lưng mẹ đang lúi húi ngoài vườn. Lòng chợt nhói lên, nhưng rồi tôi quay đi bước theo D mà không ngoảnh lại.
Hai thằng được thằng em của D chở ra quốc lộ, trời nhá nhem tối. Chúng tôi co ro ngồi bên vệ đường, chờ chuyến xe khách đi Sài Gòn.
Tám giờ tối, một chiếc xe 29 chỗ lù lù chạy tới. Giá vé 80 nghìn một người, hai thằng vét sạch túi trả 160 nghìn chui lên ghế cuối.
Trên xe, bài hát “Hãy xem như là giấc mơ” của Chu Bin vang lên, từng giai điệu như hòa vào nhịp tim đang đập rộn ràng của tôi. Sáu tiếng đồng hồ, từ Đắk Nông đến bến xe Miền Đông, tôi ngồi nhìn qua ô cửa kính lòng đầy háo hức xen lẫn lo âu.
Ba giờ rưỡi sáng, Sài Gòn đón chúng tôi bằng cái se lạnh của buổi sớm mai. Hai thằng nhóc quê mùa một đứa đeo nhẫn vàng giả khắc hình con cóc, đứa kia xách ca-táp rách . Bước xuống bến xe mà oai như cóc chết. Sài Gòn hiện ra trước mắt, lộng lẫy và xa lạ.
Chúng tôi ngồi quán cà phê vỉa hè, ngắm mấy cô sinh viên tiếp sức mùa thi . Lòng trai trẻ bỗng rạo rực.
Tôi nghĩ thầm: “Sài Gòn, tao đến rồi đây! Không biết thế nào, nhưng cứ thử xem!”
Những ngày sau đó, tôi và D được nhận vào làm ở một quán ăn nhỏ trong hẻm. Công việc vất vả từ bưng bê, rửa chén đến lau dọn . Ngày nào cũng quần quật từ sáng đến khuya.
Cứ mỗi đêm khi thành phố đã chìm vào giấc ngủ, tôi leo lên lầu hai của căn nhà trọ tồi tàn . Ngồi bên khung cửa sổ nhỏ, nhìn ánh đèn lập lòe ngoài xa. Và tôi khóc. Hai mươi sáu ngày ở Sài Gòn, đêm nào tôi cũng khóc.
Không phải vì nhớ nhà, không phải vì công việc khổ cực . Mà vì tôi chợt nhận ra mình đã làm mẹ buồn. Hình ảnh mẹ lặng lẽ ngồi bên mâm cơm chiều, ánh mắt đầy lo lắng khi tôi bỏ nhà đi cứ ám ảnh tôi mãi.
Một đêm, khi ánh trăng rằm treo lơ lửng trên bầu trời Sài Gòn tôi cầm cây bút viết vài dòng gửi về cho mẹ.
Lá thư chẳng dài, chỉ vỏn vẹn vài câu xin lỗi, hứa sẽ cố gắng để không phụ lòng mẹ. Tôi gửi lá thư ấy đi, không biết mẹ có nhận được hay không, nhưng lòng tôi nhẹ nhõm hơn. Hai mươi sáu ngày ở Sài Gòn tôi đã học được rằng . Dù đi đâu làm gì, gia đình vẫn là nơi trái tim luôn hướng về.
Đây chỉ là chương đầu tiên trong cuốn ký sự đời tôi. Còn chín chương nữa, những câu chuyện về những chuyến đi, những lần vấp ngã, và cả những giấc mơ tôi đã theo đuổi.
Nhưng có lẽ, bài học lớn nhất của tôi ở Sài Gòn năm ấy, là hiểu được rằng, dù cuộc đời có đưa ta đi xa đến đâu, tình yêu của mẹ vẫn là ngọn đèn soi sáng, dẫn lối ta trở về.
